“Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
Chúa là ánh sáng của ngọn đèn trong tay con,
Đêm tối đời con Ngài rọi sáng.”
Giêsu - Chúa cứu độ
Chúa cứu độ! Đó đúng là tiếng kêu vang lên từ cuộc đời tôi. Thật là kỳ diệu khi điều ấy được diễn tả bằng một tên gọi riêng: GIÊSU, dấu ấn của ánh sáng đã in sâu nơi tôi.
Tôi là con thứ hai trong một gia đình có bốn người con, một gia đình khiêm tốn nhưng ấm cúng, chan chứa tình thương. Một cách hồn nhiên, tôi yêu thích cuộc sống. Đối với tôi, cuộc sống xem như một cuộc chơi lý tưởng, đầy mộng mơ và vẻ đẹp, hứa hẹn nhiều khám phá kỳ thú.
Vào thời ấy, Chúa không là gì đối với tôi cả, dù rằng một đôi lúc vẫn còn vài tia sáng tâm linh họa hiếm loé lên trong tâm hồn tôi. Tuy được giáo dục trong một trường tư Công Giáo, nhưng ở đó tôi không gặp được Thiên Chúa như một Ngôi Vị đang sống. Tôi cũng thích học giáo lý, nhưng đối với tối lúc bấy giờ giáo lý cũng chỉ là một môn học thêm vào mà thôi.
Cha mẹ tôi mang danh là Công Giáo nhưng không sống đạo, dường như còn có vẻ không thực tâm tin nữa. Tuy nhiên, các ngài ăn ở liêm chính, tốt dạ, luôn tìm cách khơi dậy trong chúng tôi lòng kính trọng kẻ khác và chính mình. Nhờ đó mà tôi đã sớm học được phải lắng nghe tiếng nói của lương tâm trong tôi.
Một thế giới bị tổn thương…
Theo dòng năm tháng trôi qua, bầu không khí nội tâm khá lạc quan của tôi đã suy thoái. Tôi sớm nhận ra thế giới như bị tổn thương. Tôi chào đời ít lâu sau đệ II thế chiến. Tôi được nghe kể lại nhiều điều tàn bạo khủng khiếp người ta đã làm từ 1939-1945. Tôi cũng đã sớm chạm trán với vấn đề những bất bình đẳng trong xã hội và những hoàn cảnh bất công. Đến độ, càng ngày tôi càng thấy chán ngán cái thế gian mà tôi bị bắt buộc thừa kế, nhưng tôi lại không muốn liên đới với nó.
Tôi cũng đã trải qua giờ phút mà cái chết chực sẵn ở cuối đường đời. Cơn chấn động thật khủng khiếp, và từ đó, tôi cảm thấy hụt chân. Về sau, khi đọc các tác giả hiện sinh, nhất là Camus và Ionesco, tôi đã nhận diện được điều tiềm tàng trong tôi từ nhiều năm qua.
Tôi đã nếm mùi tuyệt vọng. Một nỗi khắc khoải sợ sống gay gắt và nhức nhối khiến tôi đã nhiều lần toan tự sát. Tôi không còn thấy cái đẹp nữa, mà luôn ray rứt với sự kiện “con người sẽ chết và không được hạnh phúc”.
Tôi thèm khát hạnh phúc và đã tìm kiếm nó khắp nơi, bất cứ nơi nào tôi nghĩ rằng nó đang ẩn trốn ở đó. Tôi cố gắng sống, để tránh gây đau khổ cho những người tôi thân thương, nhưng tôi không tìm được nơi tôi sức mạnh để sống. Suốt mấy năm liền, tôi sống lây lất từng phút, thỉnh thoảng tôi cũng thấy tâm hồn lắng dịu trong chốc lát, nhưng rồi lại luôn cảm thấy sợ sống.
Cái chết chờ chực ngoài cửa, mạnh mẽ trong tôi còn hơn cả chính tôi. Tôi lao hết mình vào cuộc săn tìm hạnh phúc, săn tìm "mặt trăng”, theo kiểu nói của Caligula trong một tác phẩm củaCamus. Điều ấy quả như một sức mạnh đẩy tôi ra khỏi tôi, nới rộng con tim tôi để tôi biết tạo hạnh phúc cho người khác, tất cả những người khác – nhưng còn tôi, tôi cảm thấy như bị giam cầm trong chính mình, trong sự ích kỷ của tôi.
Trong tia nhìn của Ngài…tôi đã hiểu …
Trong nỗi khốn cùng của tôi, tôi đã cố kêu lên Thiên Chúa, hay đúng hơn, cố dành cho Ngài một chỗ trong tôi, để Ngài có thể lên tiếng, nếu Ngài hiện hữu... Và nỗi âu lo khắc khoải tiếp tục dâng cao. Tôi cảm thấy như mình sắp chìm đắm. Tôi đã kêu cầu Chúa, và Ngài đã đáp lời.
Phải nói gì thêm nữa? Không có lời nào diễn tả được kinh nghiệm ấy. Như thánh Phaolô, tôi đã gặp Chúa Giêsu đang sống. Chúa Giêsu là Đấng Phục Sinh từ trong những kẻ chết và còn mang các vết thương của thập giá. Kinh nghiệm ấy chỉ kéo dài trong khoảng tám ngày ngắn ngủi nhưng đã có tính cách quyết định đối với tôi.
Trong ánh mắt Ngài nhìn tôi – mà tôi không thấy được bằng mắt thịt – tôi đã hiểu tất cả: Ngài đã yêu tôi ngần nào, sự sống đã vĩnh viễn chiến thắng sự chết như thế nào. Tôi đã hiểu tất cả. Tôi tiếp tục cuộc sống hằng ngày – hoàn toàn giống như trước đó – nhưng kể từ ngày ấy, mọi sự đối với tôi đã có hương vị.
Trong ánh mắt Ngài nhìn tôi, tôi đã gặp lại hạnh phúc. Niềm hạnh phúc tôi đã tìm kiếm từ quá lâu rồi, một niềm hạnh phúc dâng lên từ tận cùng hữu thể và tỏa chiếu khắp trần gian.
Từ đó, lộ trình tôi theo thật giản dị. Tôi đi theo Đấng tôi yêu mến, Đấng mà Ánh Mắt dịu hiền đã đốt cháy tôi.
Nhờ kinh nghiệm tình yêu nhân loại, tôi hiểu rằng con tim tôi không thể bị san sẻ, tôi chỉ còn có thể sống cho một mình Thiên Chúa của tôi thôi. Tôi đã vào đan viện Cát-Minh, chỉ duy theo lời Ngài gọi.
Hẳn nhiên, tôi cũng đã cố gắng tìm hiểu, suy nghĩ, luôn có những biện pháp cẩn trọng để việc phân định được chính xác hơn. Tuy nhiên, trong căn bản, tôi đã đi theo Chúa Giêsu đang gọi tôi đằng kia, và tôi đã theo Ngài bởi tôi đã yêu Ngài. Tôi phải luôn ngạc nhiên nhận thấy rằng dù ở trong bóng tối, sự hiện diện của Ngài và điều Ngài muốn đôi khi còn hiển nhiên rõ ràng hơn sự hiện diện và ý muốn của những con người mà ta thấy và nghe được.
Cho đến mãi mãi…
Vào đan viện Cát-Minh nghĩa là tôi phải đoạn tuyệt với nếp sống cũ trước kia. Chẳng hạn, tôi phải bỏ chỗ làm việc mà tôi đã mất công tranh đấu khó nhọc lắm mới giành được. Tôi đã trúng tuyển trong một kỳ thi rất khó, một sự nghiệp huy hoàng đang mở ra trước mắt tôi. Tôi yêu thích nghề nghiệp của tôi, vì đang giúp tôi triển nở. Cho nên tôi rất đau khổ khi phải từ bỏ nghề nghiệp đó.
Tuy nhiên, không vì thế mà có thể nghĩ rằng tôi đã mất tất cả. Tôi đã lìa bỏ nghề nghiệp của tôi, vì không thể nào giữ lại mọi thứ. Từ đó, một tình yêu đã mở ra trước mắt tôi, làm cho tôi mãn nguyện.
Trong đan viện Cát-Minh, tôi luôn cảm thấy hạnh phúc, dù con đường tôi đi không phải ngày nào cũng dễ dàng. Tôi không bị “cú sét’ đối với cộng đoàn, như nhiều người có vẻ đã có. Trái lại, tôi đã khám phá ra các chị em dần dần từng bước một: Họ đẹp vì họ yêu. Tôi đã khám phá điều đó ngày càng rõ.
Con đường tôi đi thật gồ ghề khó khăn, bởi những tăm tối còn để lại nơi tôi một dấu vết nặng nề, thế nhưng tôi đã cảm nghiệm được Chúa Giêsu chiến thắng. Được thêm sức mạnh nhờ sức mạnh của Ngài, tôi tiến bước. Tôi được bàn tay Ngài nâng đỡ, bàn tay đã vực tôi cùng với A-đam và E-và ra khỏi sự chết.
Tôi đã tuyên khấn vĩnh viễn trong dòng Cát-Minh được gần hai năm rồi. Suốt một thời gian lâu dài, tôi đã từng e ngại hai tiếng”vĩnh viễn” ấy... Tôi đã phải thất vọng và thất vọng quá nhiều, làm sao còn có thể cam kết một cách triệt để như thế. Nhưng năm tháng trôi qua, tâm hồn tôi lắng êm. Và đã đến lúc – giờ mà tôi mong chờ để cho dấu ấn Giáo Hội trói buộc tôi vĩnh viễn với Chúa Giêsu trong lòng Hội Dòng Cát-Minh. Giờ đây, thế là xong! Tôi cảm thấy sung sướng và tự do.
Con đường tôi đi chưa hết, nhưng từ nay, dù tôi có đi trong tăm tối, Chúa vẫn là ánh sáng cho những tối tăm của tôi. Chính vì thế, tôi đã nhấn mạnh nhiều đến việc tôi đã trải qua con đường hầm của tuyệt vọng. Tôi biết rằng bao người anh em của tôi còn bị giam nhốt trong đó.
Tôi ý thức rằng tôi như một dấu hiệu hữu hình cho thấy Thiên Chúa có thể giải cứu và hoàn trả lại sự sống. Sẽ không bao giờ quá muộn, vì người ta không bao giờ ở quá xa đối với Thiên Chúa.
Phần tôi, giờ đây, trong đan viện Cát-Minh, tôi đang hạnh phúc. Hạnh phúc, ngắn gọn thế thôi. Hạnh phúc vì Thiên Chúa, hạnh phúc vì mình, và cũng còn hạnh phúc vì có thể âm thầm dâng hiến mạng sống để những anh em rơi vào tuyệt vọng được giải cứu.
Tu muội Chantal de Jésus
35 tuổi, nữ đan sĩ Cát-Minh
0 nhận xét:
Đăng nhận xét