Hồi tưởng lại, tôi thấy có ba chặng trên con đường ơn gọi của tôi, tức là trong việc tôi dần dần tiếp nhận Tình Chúa thương xót đối với tôi, và trong tôi đã dần dà manh nha một lời đáp trả như tiếng dội của lòng thương xót ấy.
Tôi tưởng đã chết rồi…
Giai đoạn thứ nhất khởi đầu từ năm 1981, cách đây ba năm, và có thể được tóm lại trong câu thánh vịnh: “Kẻ nghèo hèn kêu lên... và Chúa đã nhậm lời ... Ngài đã giải thoát họ khỏi mọi nỗi âu lo”.
Giữa lúc trong tâm hồn tôi luôn vang lên những khát khao và cảm hứng sâu xa, thì tôi lại theo đuổi cuộc sống hẹp hòi ích kỷ. Sự cách biệt giữa đôi đàng ngày càng khiến tôi không thể chịu đựng nổi nữa. Tôi đã mơ sống tình huynh đệ với tất cả mọi người trong sự thật, vượt trên m
ọi chia cách về thế hệ, văn hóa, chủng tộc. Thế nhưng khi tôi thử sống điều đó, lập tức, tôi đã phải đương đầu ngay với những điều không thể. Tôi không biết phải theo quy tắc nào, tôi không biết đâu là điểm cân bằng, đâu là chân lý.
ọi chia cách về thế hệ, văn hóa, chủng tộc. Thế nhưng khi tôi thử sống điều đó, lập tức, tôi đã phải đương đầu ngay với những điều không thể. Tôi không biết phải theo quy tắc nào, tôi không biết đâu là điểm cân bằng, đâu là chân lý.
Cho nên tôi lại quay về với mình, để thấy mọi sự trong tôi và quanh tôi ngày càng trở nên cằn cỗi vô bổ... Bấy giờ, từ đáy tâm hồn tôi vang lên một tiếng kêu khắc khoải, một tiếng kêu cơ bản, một tiếng kêu không nên lời, nhưng còn mạnh hơn mọi tiếng kêu ở Jéricho và đã làm sụp đổ mọi thứ thành trì nho nhỏ trong đời tôi.
Tôi tưởng đã chết nhưng thực ra đó lại là cách khởi đầu cho cuộc sống đích thực của tôi. Bởi bấy giờ, trong phạm vi đời sống tôi, không còn gì đứng vững, kể cả chính tôi. Lần đầu tiên, tôi đã có một cái nhìn chính xác về con người thực của tôi. Chắc chắn là tôi đã không sao chịu đựng nổi điều đó, nếu Chúa đã không gởi Đức Mẹ Maria đến với tôi.
Một đêm kia, Đức Mẹ đã hai lần gọi tôi, bằng chính tên tôi. Đó là tất cả những gì tôi đã biết một cách ý thức, nhưng cũng từ lúc đó, Đức Mẹ đã đi vào lòng tôi và đã mang tôi như một người Mẹ trong suốt quãng đời sau đó cho đến hôm nay; và Thiên Chúa biết tôi cần đến Mẹ tới mức nào?
Chúa Giêsu trở thành một ai đó!
Thế nhưng cuộc hoán cải ấy chưa tác động đến toàn bộ cuộc sống tôi, nó chỉ mới là và vẫn luôn là một hạt giống gieo xuống đất. Trong suốt hai năm sau đó, Chúa đã dẫn dắt tôi như một người mù, như thể thánh Phaolô trên đường Damas... Tôi biết rằng tôi phải tiến bước trong tâm tình phó thác.
Tuy nhiên, cuộc sống tôi không phản chiếu được niềm an bình hay niềm vui. Tôi ngày càng cảm thấy xa cách với những người từng là bạn trai, bạn gái thân thiết của tôi, và tôi cũng không cùng ngôn ngữ với những Kitô-hữu “dấn thân” mà tôi từng gặp gỡ. Tôi như bị treo lơ lửng giữa hai trạng thái mà không muốn buông bỏ bên nào.
Cuối cùng, trong một cuộc tĩnh tâm ở Bỉ được tổ chức theo phong trào “Canh Tân Đoàn Sủng”, tôi gặp được vị linh hướng tôi hằng mong đợi. Ngài thật là người được Thiên Chúa sai đến với tôi, như nhân chứng của lòng thương xót và nhân hậu của Thiên Chúa, để lấy tình yêu soi sáng cho những chọn lựa cốt yếu mà tôi phải làm.
Đó là giai đoạn hai. Tôi chuyển từ linh đạo của các thánh vịnh sang linh đạo của Tin Mừng: Chúa GIÊSU trở thành một AI ĐÓ đối với tôi. Ngài nói với tôi trong hiện tại. Ngài dùng Lời Ngài mà dẫn dắt tôi. Bản văn đầu tiên đã đánh động tôi tận đáy lòng, là đoạn Chúa Giêsu rửa chân cho các tông đồ: lòng thương xót vô biên của Chúa, lòng trìu mến của một vị Chúa đã trở nên bạn của loài người...
Thoạt đầu, đoạn văn này làm tôi khó chịu, và cũng như Phêrô, tôi từ chối không để Chúa rửa chân cho tôi, tôi không thể để Chúa quỳ xuống trước mặt tôi. Thế nhưng rồi cũng như Phêrô, tôi đành chấp nhận. Tôi bị quyến rũ, tôi yêu tấm lòng dịu hiền, khiêm nhượng của Đấng ban tặng tất cả... và cũng đòi hỏi tất cả. Tôi cứ tiếp tục tâm trạng của Phêrô, cho đến lúc Chúa hỏi ông: “Con có yêu mến Thầy không ?”...
Tiếng nói ấy vang dội trong tôi, vừa cho riêng tôi, vừa cho mọi người. Tuy nhiên tôi không tìm được trong tôi một tình yêu nào tương ứng, cho nên tôi luôn đáp lại rằng: “Lạy Chúa, con ước ao được yêu mến Chúa”.
Như thế, tôi kẹt giữa ơn huệ của lòng Ngài thương xót và tiếng gọi của tình Ngài mến yêu. Tôi cảm thấy như bị kẹt cả hai đầu, và cuối cùng, bị dồn vào chân tường... Chính lúc ấy, Mẹ bề trên đan viện Cát-Minh hỏi tôi: “Sao? Cô muốn xin vào ở với chúng tôi à?” Và cuối cùng, sau bao nhiêu giông tố, bao nhiêu hoang mang, từ tận đáy lòng, tôi đã thốt lên lời “thưa vâng” bằng tất cả tâm hồn. Alleluia!...
Và giai đoạn ba, đó là: “Ta sẽ đính hôn con với Ta vĩnh viễn, trong công bình và chính trực, trongtrìu mến và thương xót, Ta sẽ đính hôn con với Ta cho đến đời đời và con sẽ nhận biết Giavê”.
Tu muội Claire-Marie de la Résurrection
25 tuổi – Đan-nữ Carmel
0 nhận xét:
Đăng nhận xét